Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

ACID GIBBERELLIC-GA3

  • Axít gibberellic (còn gọi là Gibberellin A3, GA, GA3) là một acid Cacboxylic đồng thời là hormon tìm thấy trong thực vật. Công thức hóa học tổng quát của nó là C19H22O6. Khi làm tinh khiết, nó là chất bột kết tinh màu trắng hay vàng nhạt, hòa tan trong etanol và hơi hòa tan trong nước
  • Axít gibberellic là một giberelin đơn, đẩy mạnh sự phát triển và kéo dài các tế bào ra. Nó tác động tới sự phân hủy của thực vật và hỗ trợ thực vật lớn nhanh nếu sử dụng với liều lượng nhỏ, nhưng cuối cùng thì thực vật ngày càng bộc lộ rõ sự phải chịu đựng nó. Axít gibberellic kích thích các tế bào của các hạt đang nảy mầm để sinh ra các phân tử mRNA đem theo mã hóa cho các enzym thủy phân Axít gibberellic là một hoóc môn rất hiệu lực mà sự tồn tại tự nhiên của nó trong thực vật kiểm soát sự phát triển của chúng. Do các GA điều chỉnh sự phát triển của thực vật, nên các ứng dụng với nồng độ rất thấp có thể có hiệu quả sâu rộng trong khi quá nhiều thì lại có tác động ngược lại. Nó thông thường được dùng ở nồng độ khoảng 0,01-10 mg/L.
  • Lịch sử phát triển: GA lần đầu tiên được nhận dạng tại Nhật Bản năm 1935, như là phụ phẩm trao đổi chất của mầm gây bệnh thực vật là loại nấm Gibberella fujikuroi (Sawada) Wollenw., (1931) (vì thế mà có tên gọi gibberellin và axít gibberellic), gây ra bệnh cho lúa. Thực vật nhiễm G. fujikuroi sẽ phát triển bệnh mà người Nhật gọi là 馬鹿苗病/ バカナエビョウ ("cây giống ngu xuẩn"), làm cho lúa phát triển cao hơn nhiều so với thông thường và chúng sẽ chết do không còn đủ cứng cáp để hỗ trợ cho trọng lượng của chính chúng. 
  • Tác động và sử dụng: Các Gibberelin có một loạt các tác động tới sự phát triển của thực vật. Chúng có thể:
1.     Kích thích phát triển thân cây nhanh chóng,
2.     Kích thích phân bào có tơ trong lá của một số thực vật,
3.     Tăng tỷ lệ nảy mầm của hạt.
Axít gibberellic đôi khi được sử dụng trong phòng thí nghiệm và các nhà kính để kích thích sự nảy mầm của hạt mà nếu khác đi thì chúng ở trạng thái ngủ. Nó cũng được dùng rộng rãi trong ngành trồng nho như là hoóc môn để thúc sự sản xuất các chùm quả và các quả nho to, đặc biệt là nho không hạt Thampson, và tại khu vực thung lũng Okanagan (Canada) nó được dùng trong ngành trồng anh đào như là chất điều tiết tăng trưởng
  • Độc tính:Axít gibberellic là chất ổn định, dễ bắt cháy và không tương thích với các acid và các chất ô xi hóa mạnh. Nó có thể có tác động như là một chất gây kích thích dị ứng đối với mắt (R36). Liều gây tử vong đối với 50% mẫu chuột cống thử nghiệm bằng đường miệng là LD50 = 6.300 mg/kg. Các chỉ dẫn về an toàn sức khỏe là S26: Nếu tiếp xúc với mắt, cần rửa mắt ngay lập tức bằng nhiều nước và tìm kiếm hỗ trợ y tế, S36: Sử dụng quần áo bảo hộ lao động thích hợp.
  • Các báo cáo liên quan đến Gibberelic Acid:
1.     Ảnh hưởng của axít gibberellic (GA3) đến các chỉ tiêu sinh trưởng và năng suất lạc (Arachis hypogaea L.) ở Thừa Thiên Huế: Xử lý bổ sung GA3 đã ảnh hưởng tốt đến sự sinh trưởng, phát triển và tăng năng suất nhiều đối tượng cây trồng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sử dụng GA3 cho cây lạc trồng trên đất cát Thừa Thiên Huế cho đến nay vẫn chưa được quan tâm. Thí nghiệm này được tiến hành tại Trung tâm Nghiên cứu cây trồng Tứ Hạ đã thu được một số kết quả mới: 1) Xử lý bổ sung GA3 ở nồng độ 10 - 20 ppm làm tăng các chỉ tiêu sinh trưởng phát triển và các yếu tố cấu thành năng suất, năng suất lạc ở mức sai khác có ý nghĩa so với đối chứng; 2) Năng suất kinh tế lạc tăng tới 10,25 – 15,77%; 3) Xử lý ngâm hạt giống trước khi gieo ở nồng độ 20 ppm có tác dụng tăng sinh trưởng và năng suất kinh tế lạc cao hơn so với các nồng độ và thời kỳ xử lý khác.(Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Tiếp)
2.     Thông tin về thuốc kích thích sinh trưởng Gibberellic acid (GA3) sử dụng trên rau ăn lá đã được Cục Bảo vệ thực vật trả lời như sau: (công văn số 1130/BVTV-QLT ngày 14/7/2010)
o    GA3 là một hoạt chất có trong danh mục thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) được phép sử dụng ở Việt Nam. Hiện nay trong danh mục GA3 được đăng ký sử dụng trên nhiều loại rau như cải bắp, rau cải, cà chua, dưa chuột, cần tây, bầu bí, đậu cove, đậu đũa, cà rốt … với 33 thương phẩm ở dạng đơn và 7 thương phẩm ở dạng hỗn hợp. Hoạt chất điều hòa sinh trưởng Gibberellin GA4 và GA7 chưa đăng kí trong Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam.
o     Độc lý của GA3
GA3 là hoạt chất BVTV sinh học thuốc nhóm độc U (ít độc) theo phân loại của WHO có độc cấp tính (LD50 ) đường miệng > 10.000 mg/kg (chuột), đường da >2000 mg/kg (chuột), đường hô hấp > 0.502 mg/L (chuột trong 4 giờ).
GA3 gây kích thích mắt nhẹ, không có khả năng gây kích thích da, không gây dị ứng, ung thư, quái thai, gây đột biến gen, không gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. GA3 không độc với cá, động vật thủy sinh, ong, chim và động vật hoang dã. Không tích lũy trong mô, trong quá trình chuyển hóa trong cây, trong đất và trong điều kiện tự nhiên.
o    Mức dư lượng tối đa cho phép (MRLs) của GA3 trong nông sản:
Hiện nay các nước quy định khác nhau về MRLs của GA3 trong nông sản. Ở Việt Nam MRLs của GA3 trong nông sản chưa có trong Qui định giới hạn tối đa ô nhiễm sinh học và hóa học trong thực phẩm ban hành kèm theo Quyết định số 46/2007/QĐ-BYT ngày 19/12/2007 của Bộ Y tế; Ủy ban Tiêu chuẩn Thực phẩm (Codex Alimentarius Commission) của FAO và Mỹ không qui định MRLs cho GA3 trong nông sản khi sử dụng liều lượng theo đúng hướng dẫn ghi trên nhãn thuốc; Nhật Bản qui định 0,2 mg/kg; Đài Loan và EU qui định 5 mg/kg trong các loại rau ăn lá.
o     Sử dụng:
Về việc sử dụng thuốc BVTV (bao gồm cả thuốc kích thích sinh trưởng) phải đảm bảo nguyên tắc 4 đúng: đúng thuốc, đúng lúc, đúng liều lượng/ nồng độ, đúng cách và phải tuân thủ thời gian cách ly đã được ghi trên nhãn.
Gibberellin có tác dụng kích thích sự phát triển của tế bào theo chiều dọc, kích thích sự sinh trưởng và phát triển của cây theo chiều cao, làm thân vươn dài, giúp hình thành các chồi nách nhiều hơn. Tuy nhiên Gibberellin chỉ phát huy tốt tác dụng khi cây trồng có đầy đủ dinh dưỡng N, P, K. Khi sử dụng quá liều lượng, hình dáng bên ngoài của các loại rau thay đổi (biến dạng, quăn queo, sần sùi) và làm giảm giá trị thương phẩm
3.     Về việc phun gibberellin vào rau sống :Gần đây báo chí Việt Nam có quan tâm đến sự kiện nông dân tự ý phun vào rau một loại thần dược có nguồn gốc từ Trung Quốc. Việc này gây quan ngại đối với người tiêu dùng mà theo như Bộ trưởng Cao Đức Phát trả lời báo giới thì gia đình Ông cũng lo lắng không kém.Chi cục bảo vệ thực vật Hà Nội đã tiến hành kiểm tra "định tính" và kết luận rau phun thuốc kích thích tăng trưởng không lớn hơn đáng kể. Thí nghiệm có quy mô hơi nhỏ và điều kiện nuôi trồng chưa tối ưu (lạnh hơn so với nhiệt độ phát triển của xà lách). "Thần dược" được Chi cục bảo vệ thức vật "chiết xuất" là Gibberellic acid (gibberellin) GA3. Sau đó, TS. Nguyễn Văn Khải (Trung tâm hoạt hoá điện hoá) lại cho thấy "thần dược" làm dài cả xà lách và cải cúc. Do đó, Bộ NN&PTNT đã yêu cầu Viện nghiên cứu Bảo vệ Thực vật tổ chức thí nghiệm đánh giá kết quả "thần dược" gồm có thuốc An Khang (50ppm GA3, đã cấp phép sử dụng), và những loại "thần dược" "lậu" của Trung Quốc (cũng là GA3) nhưng không đăng ký, không mô tả thành phần. Kết luận từ thí nghiệm chưa công bố nhưng với những kết quả ban đầu có thể đưa ra nhận định là 1) việc truyền thông mô tả phun GA3 làm cây phát triển nhanh trong vài ba ngày là sai sự thât. Những cây rau khi phun GA3 phải phát triển từ 3-4 tuần mới có sự khác biệt về hình thái. 2) Khi phun GA3, cây trồng sẽ có thân cao, lá nhạt màu so với những cây bình thường. Kết quả này phù hợp hoàn toàn với các quan sát của người dân cũng như mô tả về chức năng của gibberellin đã được nghiên cứu rộng rãi trên thế giới vì giberellin là một loại hormone thực vật có tác dụng kích thích sinh trưởng, kéo dài thân và lá. Gibberellin được phát hiện lần đầu tiên bởi nhà khoa học người Nhật Kurosawa được sản sinh từ chủng nấm Gibberella fujikuroi. Về sau, gibberellin được tìm thấy ở hầu hết các loài thực vật chứng tỏ nó hoạt động như một hormone thực vật nội sinh tự nhiên. Các GA hoạt tính (trong đó có GA3) có tác dụng chính là kéo dài tế bào (cellular elongation) thông qua việc phân hủy một nhóm protein kìm hãm sinh trưởng ở thực vật là DELLA protein.Ngoài ra, GA còn có tác dụng kích thích nảy mầm hạt, kích thích ra hoa và hình thành quả không hạt. Trên thế giới, GA được sử dụng rộng rãi để tăng năng suốt cây trồng do kéo dài thân hoặc tăng kích thước lá. Từ năm 1995, Cục Bảo Vệ Môi Trường Hoa Kỳ (nơi cấp phép cho các hóa chất được sử dụng trong nông nghiệp) đã xếp GA3 nằm ở nhóm chất độc nhóm 3 và nhóm 4, nghĩa là nhóm có độc tính nhẹ nhất và gần như không đáng kể. EPA cho phép sử dụng GA3 ở Hoa Kỳ mà không hề có bất kỳ cảnh báo về ảnh hưởng của nó đối với môi trường cũng như vật nuôi và sinh vật hoang dã. Điều duy nhất phải chú ý khi sử dụng GA3 là không được phép đổ thẳng GA3 vào nguồn nước thủy lợi hoặc bón cho cây đang ở trạng thái ngập nước. Thực tế cách sử dụng GA3 hữu hiệu nhất là hòa tan hoàn toàn GA3 trong bình dung dịch và phun trực tiếp lên lá. Việc phun GA3 không thể thay thế việc cung cấp chất dinh dưỡng (bón phân) hay bảo vệ khỏi sâu hại (trừ sâu). Thông thường nên phun GA3 trước khi thu hoạch độ 4-5 ngày để rau phát triển hoàn toàn cũng như loại bỏ các tồn dư có hại với người sử dụng. Trong khi đó, người sử dụng các rau quả có bón GA3 chỉ cần rửa sạch và gọt vỏ thì hoàn toàn có thể an tâm. Những nông dân muốn sử dụng GA3 để phục vụ sản xuất xin hãy chọn mua các sản phẩm có ghi nhãn mác cẩn thận, nơi sản xuất và hạn sử dụng rõ ràng. Chất GA3 chỉ có tác dụng tốt nhất khi nó còn ở dạng hoạt tính và nếu bảo quản không đúng cách, mua hàng kém chất lượng, lẫn nhiều tạp chất thì giá trị sử dụng của hóa chất rất thấp, không tương xứng với chi phí đầu tư. Chất GA3 có một ngưỡng nồng độ hoạt động tối ưu nhất định nên khi sử dụng phải tuân thủ theo đúng hướng dẫn của sản phẩm. Việc tăng hay giảm ngoài biên độ đều làm giảm hoạt tính của GA3 đối với thực vật. Giá một bình GA3 khoảng 4lit của hãng MegaGro (USA) à tầm 100$ (dung dịch dùng trực tiếp). Một số lưu ý đối với các thí nghiệm kiểm định và công bố kết quả đối với người dân.
Thứ nhất việc báo chí gây sốc khi để tựa "Hoạt chất tưới rau là chất độc hại 3" mặc dù đúng về nội dung nhưng đưa một thông điệp hoàn toàn ngược lại. Hầu hết các hóa chất đều có tác hại (độc tính) đối với người hoặc động vật ở một ngưỡng liều nhất định. GA3 được xếp vào độc loại 3 có nghĩa là loại nhẹ thứ 2 trong bảng xếp loại các chất độc. Loại 3 có nghĩa là độc rất nhẹ trong khi loại 4 có thể coi là không độc. Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ nghiêm cấm phun GA3 quá ngưỡng liều là 20g ai/acre (tương đương 5 mg/m²) đối với đa số các loại nông sản, rau quả Thứ hai, đối với các loại rau trồng nông nghiệp thì khi đánh giá định lượng thiết tưởng phải tính ra đơn vị sản lượng. Vd. nếu dùng thuốc GA3 thì người dân sẽ thu hoạch được bao nhiêu kg nông sản trên 1ha. Đây mới là con số có ý nghĩa hơn là việc thông báo cây rau sẽ cao hơn bao nhiêu % so với đối chứng.
Thứ ba, việc tiến hành tiếp tục các thử nghiệm "định tính" và "định lượng" trên các loại thực vật khác nhau, vùng đất khác nhau là một sự lãng phí. Việc cần thiết là dùng GC-MS xác định rõ các thành phần trong "thần dược" là những gì, có chất lẫn tạp nào gây độc không. Nếu chỉ có GA3 thì việc GA3 có tác dụng đối với thực vật như thế nào đã được nhân loại chứng minh và tìm ra cơ sở khoa học từ hơn 50 năm trước. Có hay chăng là cục bảo vệ thực vật cần đưa ra quy định chính thức cho nông dân về nồng độ (hàm lượng) cho phép tối đa của "thần dược" trên một đơn vị khối lượng rau, quả. Đồng thời, ngăn cấm một cách hiệu quả việc sử dụng trái phép các "thần dược" nhập lậu, không rõ thành phần, xuất xứ cũng như khuyến cáo sử dụng các thần dược tương đương đã qua quy chế kiểm duyệt an toàn.
Thứ tư, các tổ chức khuyến nông cần phổ biến kiến thức về sử dụng GA3 cho bà con nông dân một cách hợp lý. Bà con nông dân cần hiểu rằng GA3 chỉ có tác dụng cao thân, dài lá nên thích hợp với một số loại rau nhưng nếu dùng cho lúa thì sẽ bị tổn thất nghiệm trọng gây nên bệnh lúa von. Nghĩa là cây lúa rất cao nhưng hạt lúa lép vì thiếu dinh dưỡng. Do đó, tuyệt đối tránh để GA3 bị nhiễm vào nước tưới tiêu của các cây trồng khác.
Ngoài ra, bà con cần suy tính về lợi nhuận trước khi quyết định có sử dụng GA3 cho các luống rau của mình. Việc người tiêu dùng dễ dàng nhận thấy những cây xà lách, cải cúc được phun GA3 (vì lá dài rất bất bình thường) sẽ gây tâm lý nghi ngại và họ có lẽ sẵn sàng trả một cái giá cao hơn đối với những cây rau sạch, không sử dụng chất bảo vệ thực vật (như GA3). Đồng thời, người viết cũng mong muốn các tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam sẽ hoạt động hiệu quả trong việc giám sát và tư vấn việc sản xuất các nông sản "sạch", không sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc bảo vệ thực vật.
Nguồn:
1.     http://vi.wikipedia.org/wiki/Axit_gibberellic
2.     http://jos.hueuni.edu.vn/index.php/TCKHDHH/article/view/160
3.     http://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki/V%E1%BB%81_vi%E1%BB%87c_phun_gibberellin_v%C3%A0o_rau_s%E1%BB%91ng 
(Tổng hợp tài liệu Forgetmenot1976)


Cytokinin


Ký hiệu: Cytokinin
Phương pháp phân tích:
-  Nguồn gốc
Việc phát hiện ra cytokinin gắn liền với kỹ thuật nuôi cây mô tế bào thực vật. Năm 1955 Miller và Skoog phát hiện và chiết xuất từ tinh dịch cá thu một hợp chất có khả năng kích thích sự phân chia tế bào rất mạnh mẽ trong nuôi cấy mô gọi là kinetin (6-furfurryl-aminopurin: C10H9N5O).
Letham và Miller (1963) lần đầu tiên đã tách được cytokinin tự nhiên ở dạng kết tinh từ hạt ngô gọi là zeatin và có hoạt tính tương tự kinetin. Sau đó người ta đã phát hiện cytokinin có ở trong tất cả các loại thực vật khác nhau và là một nhóm phytohormone quan trọng ở trong cây. Trong các loại cytokinin thì 3 loại sau đây là phổ biến nhất: Kinetin (6- furfuryl- aminopurin), 6-benzin- aminopurin và zeatin tự nhiên.
Nước dừa (phôi nhũ lỏng) từ lâu được dùng trong nuôi cấy (Van Overbeek et al., 1941). Môi trường chứa auxin và 10-20% nước dừa giúp sự phân chia của tế bào thân đã phân hoá (sự tạo mô sẹo). Người ta tìm cách xác định bản chất hoá học của chất có trong nước dừa, nhưng phải sau sự khám phá cytokinin vài năm, nước dừa mới được chứng minh chứa zeatin (Letham, 1974)
Sau zeatin, hơn 30 cytokinin khác nhau được cô lập. Ngày nay, người ta gọi cytokinin để chỉ một nhóm chất thiên nhiên hay nhân tạo, có đặc tính sinh lý giống nước dừa hay kinetin.
- Cấu trúc và sinh tổng hợp
Zeatin tự do ở dạng trans trong phần lớn thực vật, mặc dù cả 2 dạng cis và trans đều có hoạt tính của cytokinin. Nhiều chất tổng hợp có hoạt tính cytokini, chúng đều là các aminopurin được thay thế ở vị trí 6, thí dụ benzylaminopurin (benzyl adenin, viết tắt BAP hay BA) là chất được dùng trong nông nghiệp. Ngoại lệ, vài dẫn xuất diphenilurê có hoạt tính cytokinin nhưng yếu.
Chuỗi ngang của các cytokinin thiên nhiên có liên hệ về mặt hoá học với cao su, carotenoid, gibberelin, axit abcisic, và vài hợp chất bảo vệ thực vật gọi là phytoalexin. Tất cả các hợp chất này, ít ra là một phần, được thành lập bởi các đơn vị isopren có nguồn gốc từ tiền chất acid mevalonic. Ở thực vật, cytokinin synthaz là enzym xúc tác sự liên kết giữa chuỗi bên và adenosin monophosphat (AMP).
Mô phân sinh ngọn rễ là nơi tổng hợp chủ yếu các cytokinin tự do cho cả cơ thể thực vật. Từ rễ, cytokinin di chuyển trong mạch mộc để tới chồi. Tuy nhiên, các chồi ( cà chua) và phôi cũng là nơi tổng hợp cytokinin.
Khác với mô phân sinh ngọn chồi, phôi bị tách khỏi cây vẫn tiếp tục tăng trưởng và phát triển bình thường trên môi trường thiếu hormon. Người ta không biết chính xác khi nào phôi tự lập về cytokinin, tuy nhiên, có lẽ phôi quá non ( không có khả năng tổng hợp cytokinin) dùng cytokinin hiện diện ở hàm lượng cao trong phôi nhũ.
Phân tử tRNA (tham gia trong sự tổng hợp protein trong cytosol hay trong diệp lạp) không chỉ chứa 4 nucleotid tạo nên mọi RNA, mà còn vài nucleotid không bình thường với các baz bị biến đổi. Vài baz này hoạt động như cytokinin khi tRNA bị thuỷ giải (theo con đường enzym troong tế bào). Như vậy, tRNA của thực vật (và hầu như của mọi sinh vật từ vi khuẩn đến con người) chứa zeatin, mặc dù ở dạng đồng phân cis thay vì trans như các cytokinin tự do.
- Các loại cytokinin
+ Các loại cytokinin tự nhiên: ngày nay, người ta cho rằng kinetin không phải là chất tự nhiên mà nó được tạo thành do sự tái sắp xếp lại cấu trúc của một chất khác (Hecht, 1980), có ít nhất hai loại cytokinin tự nhiên có cấu trúc tương tự như cấu trúc của kinetin đã được xác định, đó là nhgững hợp chất tự do hay những hợp chất có gắn với nhóm glucoside hoặc riboside (Entsch và cộng sự, 1980). Hai loại cytokinin thường được sử dụng trong nuôi cấy mô là:
Zeatin: 4-hydroxy-3-methyl-trans-2-butenylaminopurine, hoặc 6-(4-hydro-3-methylbut-2-enyl)-aminopurine hoặc 2-methyl-4(-1H-purine-6-ylamino)-2-buten-1-ol)
Zeatin 




Adenin


Dihydrozeatin
 Đây là các loại Cytokinin tự nhiên
2-iP (IPA): N6-(2-isopentyl)adenine hoặc 6-(3-methyl-2-butenylamino)purine.
Dihydrozeatin: 6-(-hydroxy=3=methyl-trans-2-butenyl)aminopurine.
+ Các loại cytokinin tổng hợp: các loại cytokinie tự nhiên như 2-iP và zeatin ít được sử dụng trong các thí nghiệm vì giá thành cao. Một số hợp chất tổng hợp thuộc nhóm cytokinin thường được sử dụng trong công tác nuôi cấy là:
Kinetin


Benzyladenine

Chrophenylurea
 Đây là các loại Cytokinin tổng hợp
Kinetin: 6-furfurylaminopurine hoặc N-(2-furanylmethyl)-1H-purine-6-amine
BAP (BA): 6-benzylaminopurine hoặc benzyladenine .
TDZ: 1-phenyl-3(1,2,3 thiadiazol-5-yl)
+ Trọng lượng phân tử của một số cytokinin:
Tên chất
Viết tắt
Trọng lượng
phân tử
Dung môi
Nhiệt độ bảo quản
Dạng bột
Dạng lỏng
Adenine
ADE
135.1
1.0 HCI
-
2-8oC
6-Benzylaminopurine
BAP
225.3
1N NaOH
-
2-8oC
Zeatin
ZEA
219.2
1N NaOH
0oC
0oC
6-(3-methyl-2-butenylamino)purine
2-iP
203.2
1N NaOH
0oC
0oC
Kinetin
KIN
215.2
1N NaOH
0oC
0oC
1-phenyl-3(1,2,3 thiadiazol-5-yl)
TDZ
220.2
DMSO
-
2-8oC
1,3-Diphenylurea
DPU
212.3
DMSO
-
2-8oC
- Tính chất sinh lý của cytokinin
Tính chất đặc trưng của xytokinin là kích thích sự phân chia tế bào mạnh mẽ. Vì vậy người ta xem chúng như là các chất hoạt hóa sự phân chia tế bào, nguyên nhân là do xytokinin hoạt hóa mạnh mẽ quá trình tổng hợp axit nucleic và protein dẫn đến kích sự phân chia tế bào.

Cytokinin ảnh hưởng rõ rệt lên sự hình thành và phân hóa cơ quan của thực vật, đặc biệt là sự phân hóa chồi. Người ta đã chứng minh rằng sự cân bằng giữa tỷ lệ auxin (phân hóa rễ) và Cytokinin (phân hóa chồi) có ý nghĩa rất quyết định trong quá trình phát sinh hình thái của mô nuôi cấy in vitro cũng như trên cây nguyên vẹn. Nếu tỷ lệ auxin cao hơn cytokinin thì kích thích sự ra rễ, còn tỷ lệ cytokinin cao hơn auxin thì kích thích ra chồi. Ðể tăng hệ số nhân giống, người ta thường tăng nồng độ cytokinin trong môi trường nuôi cấy ở giai đoạn tạo chồi. Ở trong cây rễ là cơ quan tổng hợp cytokinin chủ yếu nên rễ phát triển mạnh thì hình thành nhiều cytokinin và kích thích chồi trên mặt đất cũng hình thành nhiều.
Cytokinin kìm hãm quá trình già hóa của các cơ quan và của cây nguyên vẹn. Nếu như lá tách rời được xử lý cytokinin thì duy trì được hàm lượng protein và chlorophin trong thời gian lâu hơn và lá tồn tại màu xanh lâu hơn. Hiệu quả kìm hãm sự già hóa, kéo dài tuổi thọ của các cơ quan có thể chứng minh khi cành dâm ra rễ thì rễ tổng hợp cytokinin nội sinh và kéo dài thời gian sống của lá lâu hơn. Hàm lượng cytokinin nhiều làm cho lá xanh lâu do nó tăng quá trình vận chuyển chất dinh dưỡng về nuôi lá. Trên cây nguyên vẹn khi bộ rễ sinh trưởng tốt thì làm cho cây trẻ và sinh trưởng mạnh, nếu bộ rễ bị tổn thương thì cơ quan trên mặt đất chóng già.
Cytokinin trong một số trường hợp ảnh hưởng lên sự nảy mầm của hạt và của củ. Vì vậy nếu xử lý cytokinin có thể phá bỏ trạng thái ngủ nghỉ của hạt, củ và chồi ngủ.
Ngoài ra cytokinin còn có mối quan hệ tương tác với auxin, cytokinin làm yếu hiện tượng ưu thế ngọn, làm phân cành nhiều. Cytokinin còn ảnh hưởng lên các quá trình trao đổi chất như quá trình tổng hợp axit nucleic, protein, chlorophin và vì vậy ảnh hưởng đến các quá trình sinh lý của cây
Các ứng dụng của Cytukinin:.
1.    Trên cây táo việc áp dụng Cytokinin có tác dụng thúc đẩy sự hình thành mầm hoa rất mạnh(Lucwill,1970;Bruinsma,1979)
2.    Trên cây xoài,việc phun BA(N-Phenylmetyl-1H-purin-6-amin) lên chồi trưởng thành có tác dụng thúc đẩy sự hình thành mầm hoa ở một số trường hợp (Chen,1985)
3.    Nuôi cấy tế bào:để nhân nhanh invitro trong giai đoạn đầu cần phải điều khiển mô nuôi cấy phát sinh nhiều chồi để tăng hệ số nhân,người ta tăng nồng độ Cytokinin trong môi trường nuôi cấy.Các chất thuộc nhóm Cytokinin được sử dụng là Kinetin,Acid Benzoic lấy từ dung dịch hữu cơ như nước dừa,dịch chiết nấm men
Tên các sản phẩm  thương ,mại có chứa Cytokinin:
  • Agrispon 0.56 SL kích thích sinh trưởng bắp cải.Liều lượng :1 lít/1ha(Cali Parimex InC.)
  • 3G giá giòn giòn 1.5 WP: kích thích sinh trưởng giá đậu xanh (Doanh nghiệp Tư Nhân Tân Quy)
  • Agsmix 0.56SL :kích thích sinh trưởng bắp,chè (Công Ty TNHH BVTV An Hưng Phát)

(Nguồn sưu tầm internet)